Những cơn bão đáng chú ý nhất[nb 1] Mùa bão Đại Tây Dương 2005

Bão Dennis

Lịch sử khí tượng

Bão Dennis
Bão lớn cấp 4 (SSHWS/NWS)
Bão Dennis khi ở trên vịnh Mexico
Hình thành4 tháng 7
Tan18 tháng 7
Sức gió mạnh nhấtDuy trì liên tục trong 1 phút:
240 km/h (150 mph)
Áp suất thấp nhất930 hPa (mbar)
Số người chết88
Thiệt hại3,98 tỷ USD (2005)
Vùng ảnh hưởng

Một sóng nhiệt đới sau này trở thành bão Dennis được Trung tâm Bão Quốc gia Hoa Kì xác định và theo dõi vào ngày 26 tháng 6 năm 2005, ở sâu trong đất liền Châu Phi.[34][88] [89] Sau đó nó di chuyển vào vùng biển Đại Tây Dương vào ngày 29 tháng 6 và di chuyển nhanh theo hướng Tây.[34]  Điều kiện khô hạn trên sa mạc Sahara ban đầu đã cản trở sự phát triển, nhưng sau đó sóng nhiệt đới đã di chuyển vào nơi có những điều kiện thuận lợi hơn và mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới vào ngày 4 tháng 7 khi tiến gần Quần đảo Windward.[34]  Áp thấp nhiệt đới nhanh chóng đi qua đảo quốc Grenada trước khi tiến vào vùng biển Caribe, nơi có môi trường ngày càng thuận lợi, chẳng hạn như độ đứt gió thấp và nhiệt độ mặt nước biển cao, điều này hỗ trợ cho sự mạnh lên.[90][91][92] Bão đổi hướng, di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc, hệ thống mạnh lên thành bão nhiệt đới vào ngày 5 tháng 7 và đạt sức gió tương đương bão cuồng phong vào ngày hôm sau.[34]  Sự hình thành của một mắt bão rõ ràng và vùng mây dày đặc tại xung quanh trung tâm báo hiệu sự mạnh lên của Dennis, bão đã trở thành một cơn bão cuồng phong cấp 3 vào ngày 7 tháng 7. Cơn bão sau đó đi qua kênh Jamaica, gây lũ lụt chết người cho cả Jamaica và Haiti.[34]

Đường đi bão Dennis năm 2005

Cơn bão mạnh nhanh chóng tấn công tỉnh Granma, Cuba với sức gió của bão cuồng phong cấp 4 vào sáng sớm ngày 8 tháng 7; những cơn gió dữ dội do bão tại tỉnh này gây ra thiệt hại trên diện rộng. Sau khi suy yếu nhanh trong thời gian ngắn do tương tác với đất liền, Dennis nhanh chóng lấy lại sức mạnh. Bão di chuyển song song với bờ biển phía tây nam của Cuba, Dennis đạt sức gió tối đa 130 kt (240 km/h).[34] Tuy nhiên, bão suy yếu một chút về sức gió 120 kt (220 km/h) vào cuối ngày hôm đó do chu kỳ thay thế thành mắt trước khi đổ bộ vào tỉnh Matanzas của quốc gia này.[34] Sự tương tác với các dãy núi ở Cuba gây ra sự suy yếu đáng kể;[93] sau đó Dennis di chuyển vào vịnh Mexico vào ngày 9 tháng 7, nó nhanh chóng được tổ chức lại do điều kiện thuận lợi. Bão đạt cường độ cấp 4 lần thứ ba vào ngày 10 tháng 7 khi nó tiếp cận Florida, đạt áp suất khí quyển thấp nhất là 930 mbar (hPa; 27,46 inHg ).[34] Điều này khiến Dennis là cơn bão mạnh nhất trên khu vực Đại Tây Dương hình thành trước tháng 8 tính đến thời điểm đó; tuy nhiên, kỷ lục này đã bị phá chỉ sáu ngày sau bởi bão Emily, bão đã vượt qua kỉ lục cũ Dennis và là bão cấp 5.[94][95] Sự suy yếu xảy ra sau đó khi cơn bão tiếp cận Florida Panhandle, cơn bão đổ bộ vào Đảo Santa Rosa vào ngày 10 tháng 7, khi đó nó là bão cấp 3. Sự suy yếu tiếp tục diễn ra khi xoáy thuận di chuyển sâu hơn vào đất liền và cơn bão nhanh chóng mất trạng thái xoáy thuận nhiệt đới. Tuy nhiên, hoàn lưu còn sót lại của Dennis vẫn còn, đi qua thung lũng Sông Mississippi và thung lũng Sông Ohio trước khi tan biến tại Ontario (Canda) vào ngày 18 tháng 7.[34]

Ảnh hưởng

Thống kê thiệt hại do ảnh hưởng của bão
Quốc giaSố người chếtThiệt hại (USD)Tham khảo
Haiti&000000000000005600000056&0000000050000000.000000$50 triệu[37][96]
Jamaica&00000000000000010000001>&0000000034500000.000000$34,5 triệu[34][97][98][99]
Cuba&000000000000001600000016&0000001400000000.000000$1,4 tỷ[34]
Hoa Kì&000000000000001500000015&0000002500000000.000000$2,5 tỷ[100]
Do các nguồn trích dẫn khác nhau lên tổng số có thể khác
Tổng88&0000003984500000.000000$3,98 tỷ

Mưa lớn do ảnh hưởng của bão Dennis đã gây ra lũ lụt và lở đất trên diện rộng ở Haiti. Hậu quả là dòng nước khiến ít nhất 56 người chết, làm 36 người khác bị thương và 24 người khác mất tích.[96] Ít nhất 9 trường hợp tử vong xảy ra khi một cây cầu bị sập ở Grand-Goâve.[101][102] Thiệt hại tài sản trên diện rộng xảy ra với 929 ngôi nhà bị phá hủy và 3.058 ngôi nhà khác bị hư hại, khiến 1.500 gia đình mất nhà cửa.[96]  Tổng thiệt hại lên tới 50 triệu USD.[37]

Dennis đã gây mưa xối xả đến Jamaica với lượng mưa tích lũy đạt đỉnh điểm là 24,54 inch (623 mm) ở Ngân hàng Mavis - được coi là 50 năm mới có 1 lần. Lũ quét trên diện rộng xảy ra sau đó, làm hư hại hoặc phá hủy nhiều ngôi nhà và cơ sở kinh doanh. Nước tràn từ nhiều con sông đã khiến nhiều thị trấn phải sơ tán và khiến nhiều người mắc kẹt. Các Giáo xứ Saint Thomas và Portland bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Nhìn chung, có một người chết ở quốc gia này và thiệt hại vượt quá 2,128 tỷ đô la Jamaica (34,5 triệu USD).[34][97][98]

Còn tại Cuba, trạm khí tượng tại Cabo Cruz báo cáo rằng quan trắc được gió duy trì 2 phút đạt 116 kt (215 km/h), gió giật mạnh 129 kt (239 km/h) (tương đương gió cấp 17 thang sức gió Beaufort hay thang BF) ở độ cao 10 m; một trạm khác tại Unión de Reyes cũng quan trắc được gió duy trì đạt 96 kt (178 km/h), giật tới 107 kt (198 km/h) (gió cấp 15 giật cấp 16 thang BF).[34] Bão khiến 16 người thiệt mạng và gây thiệt hại 1,4 tỷ USD khi đi qua hòn đảo, san phẳng nhà cửa, làm đổ cây cối và đường dây điện.[103] Lượng mưa lớn đổ xuống khắp đất nước, với lượng lên tới 1.092 milimét (43,0 in), khiến Dennis trở thành cơn bão gây mưa lớn nhất trên đảo kể từ bão Flora năm 1963.[39]  Theo báo cáo từ chính phủ Cuba, 120.000 ngôi nhà bị hư hại, 15.000 ngôi nhà bị hư hại. trong số đó đã bị phá hủy. Ngành công nghiệp rau quả và cam quýt cũng bị tàn phá khi các vùng nông nghiệp chính của Cuba bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Tuy nhiên, cố lãnh tụ Fidel Castro đã công khai từ chối viện trợ của Hoa Kỳ sau cơn bão để phản đối lệnh cấm vận thương mại của Hoa Kỳ đối với Cuba.[104]  

Sau khi càn quét qua Cuba, bão đổ bộ vào Florida với cường độ bão cấp 3. Trên đất liền có nơi ghi nhận gió cấp 14 giật cấp 16 (thang BF).[34] Lượng mưa cao nhất do bão ghi nhận ở Hoa Kỳ đạt 12,80 in (325 mm) gần Camden, Alabama.[42] Nước dâng do bão có nơi cao tới 2,7 m ở vùng vịnh Apalachee và 2,1 m ở Florida Panhandle.[105] Thiệt hại do bão ở Hoa Kỳ lên tới 2,545 tỷ USD và có 15 người chết ở nước này.[34]

Bão Emily

Lịch sử khí tượng

Bão Emily
Bão lớn cấp 5 (SSHWS/NWS)
Bão Emily sáng ngày 16 tháng 7, ở gần lúc mạnh nhất.
Hình thành11 tháng 7
Tan21 tháng 7
Sức gió mạnh nhấtDuy trì liên tục trong 1 phút:
260 km/h (160 mph)
Áp suất thấp nhất929 hPa (mbar)
Vùng ảnh hưởngGuyana, Tiểu Antilles, Venezuela, Colombia, Đại Antilles, Honduras, Belize, Mexico, Texas

Vào ngày 6 tháng 7, một sóng nhiệt đới đã di chuyển ra khỏi bờ biển Châu Phi. Di chuyển về phía tây, sóng dần dần được tổ chức cho đến ngày 10 tháng 7, tại thời điểm đó đối lưu trở nên tập trung hơn và người ta ước tính áp thấp nhiệt đới thứ 5 đã hình thành ở vùng biển là vùng nhiệt đới ở trung tâm Đại Tây Dương vào tối hôm đó.[43] Cuối ngày 11 tháng 7, nó mạnh lên thành bão nhiệt đới và có tên quốc tế Emily.[43] Ban đầu được dự báo sẽ mạnh lên nhanh chóng và di chuyển theo hướng tây-tây bắc qua Đại Antilles, thay vào đó Emily di chuyển gần như hướng tây về phía Quần đảo Windward, vẫn là một cơn bão nhiệt đới không mạnh lắm. Cơn bão suy yếu đôi chút khi di chuyển nhanh về phía tây và bão đã phải vật lộn để duy trì hình dạng đám mây của nó. Trái ngược với hiện tượng thông thường là các cơn bão để lại vùng nước mát phía sau, Bão Dennis đã khiến nhiều khu vực của vùng Caribe ấm hơn,[106]  và do đó thuận lợi hơn cho sự phát triển của bão nhiệt đới. Cuối ngày 13 tháng 7, Emily mạnh lên nhanh chóng và đạt cường độ bão cuồng phong khi đi qua phía bắc Tobago và đi vào phía đông Caribe. Vào ngày 14 tháng 7, Emily đổ bộ vào miền bắc Grenada với sức gió 75 kt (140 km/h).[43]

Đường đi bão Emily (2005)

Xu hướng mạnh lên trở lại vào ngày hôm sau với áp suất trung tâm của cơn bão giảm khá nhanh khi nó đi vào phía đông nam Biển Caribe, một khu vực thường không thuận lợi cho việc tăng cường vào thời điểm này trong mùa. Bão Emily nhanh chóng mạnh lên, trở thành bão cấp 4 vào sáng sớm ngày 15 tháng 7. Trong ngày, cường độ của bão có biến động đáng kể, giảm xuống còn bão cấp 2 rồi sau đó lại mạnh lên thành bão cấp 4. Vào ngày 16 tháng 7, Emily mạnh lên đáng kể , với tốc độ gió cực đại 140 (260 km/h), nó trở thành cơn bão mạnh nhất từng được ghi nhận hình thành trong tháng 7, và là cơn bão cấp 5 sớm nhất được biết đến ở khu vực Đại Tây Dương. Ban đầu tại thời điểm này Emily được cho là đã đạt đỉnh điểm là bão cấp 4, nhưng phân tích sau cơn bão cho thấy bão thực sự là bão cấp 5. Cơn bão suy yếu đôi chút khi nó tiếp tục di chuyển về phía tây và vẫn ở cấp độ 4 khi đi qua phía nam Jamaica và vào ngày 17 tháng 7, đến Quần đảo Cayman . Emily tiếp tục di chuyển gần như thẳng theo hướng Tây Tây Bắc, suy yếu đôi chút nhưng là cơn bão cấp 4 cho đến khi tiến gần Cozumel, ngay trước khi đổ bộ vào đất liền tại Playa del Carmen lúc 06:30 UTC ngày 18 tháng 7. Gió duy trì ở mức 115 kt (215 km/h), và thành mắt bão quét qua Cozumel.[43]

Việc di chuyển trên đất liền đã làm gián đoạn tâm hoàn lưu của cơn bão và nó đã suy yếu thành cơn bão cấp 1 với tốc độ gió duy trì khoảng 65 kt (120 km/h). Tâm bão di chuyển vào vịnh Mexico vào cuối buổi sáng hôm đó. Tuy nhiên, vài giờ trên vùng nước ấm ở phía Tây Vịnh đã cung cấp năng lượng cần thiết để Emily tái tổ chức lại và đến nửa đêm tốc độ gió ngày càng tăng. Tốc độ gió tăng chậm lại nhưng cơn bão vẫn tiếp tục được tổ chức tốt hơn. Emily bắt đầu có các dòng phân kì rất đối xứng. Trong quá trình trinh sát của máy bay săn bão, người ta đã thấy rằng những cơn gió mạnh nhất của cơn bão được tìm thấy ở ba khoảng cách khác nhau tính từ tâm bão (nghĩa là cơn bão giống như có 3 thành mắt đồng tâm). Tuy nhiên, phạm vi gió mạnh cuối cùng đã giảm xuống và thành mắt bên trong chiếm ưu thế. Kết quả là sức gió ở thành mắt bên trong tăng nhanh chóng vào tối ngày 19 tháng 7. Áp suất giảm khoảng 30 hPa và gió tăng từ 80 kt (150 km/h) lên hơn 110 mph (205 km/h), diễn ra trong một vài giờ.[43]

Chuyển động của cơn bão chậm lại và tâm bão bắt đầu hướng về phía bờ biển. Cơn bão đổ bộ vào khoảng 11:00 UTC ngày 20 tháng 7 gần San Fernando ở Tamaulipas . Cơn bão lúc đó có sức gió duy trì 110 kt (205 km/h), tương đương cấp 3 trên thang bão Saffir–Simpson. Sau khi tiến vào đất liền phía đông bắc Mexico, nó tan trên Sierra Madre Oriental vào ngày 21 tháng 7.[43]

Ảnh hưởng

Tại Grenada, gió giật mạnh 107 km/h (cấp 11) đã được ghi nhận tại sân bay Point Salines Int'l,[43] Emily khiến một người chết và gây thiệt hại 111 triệu USD, hàng nghìn mái nhà bị hư hại. Hoàn lưu lớn của cơn bão cũng làm hư hại nhà cửa ở các hòn đảo lân cận khác.[107][108] Lượng mưa lớn từ Emily ảnh hưởng đến Haiti, khiến 5 người thiệt mạng.[43] Tại Jamaica, do ảnh hưởng của bão Emily, lượng mưa 15,43 in (392 mm) đã được ghi nhận; lũ lụt do mưa lớn làm chết 5 người trên đảo.[43]  Nói chung, Emily và cơn bão Dennis trước đó đã gây ra thiệt hại khoảng 96 triệu đô la Mỹ (6 tỷ đô la Jamaica) cho Jamaica.[109] Ở Honduras, một người đàn ông chết đuối trên dòng sông dâng cao do mưa từ Emily.[110]  Tại Mexico, gió mạnh nhất có thể ghi nhận là tại San Fernando, với gió duy trì trong 2 phút quan trắc được chỉ 102 km/h, gió giật khoảng 156 km/h (gió cấp 10-11 giật cấp 14 thang BF). Điều này là do bão có phạm vi gió mạnh khá hẹp khi đổ bộ, chứ không phải là do bão yếu.[43] Lượng mưa 350 mm đã được ghi nhận tại Cerralvo. Mexico là nơi bị thiệt hại nặng nề nhất, Emily đã đổ bộ hai lần vào Mexico, với thiệt hại ở quốc gia này ước tính lên tới 343 triệu USD (3,4 tỷ MXN).[111] Hai phi công trực thăng đã thiệt mạng khi máy bay của họ bị rơi khi đang sơ tán các giàn khoan dầu ngoài khơi do Pemex điều hành. Một người đàn ông ở Playa del Carmen bị điện giật tử vong khi đang chuẩn bị ứng phó với cơn bão.[110] Hoàn lưu bão Emily gây mưa lớn ở miền nam Texas, làm hư hại số bông có trị giá khoảng 4,7 triệu USD.[112]

Bão Katrina

Bài chi tiết: Bão Katrina (2005)

Lịch sử khí tượng

Bão Katrina
Bão lớn cấp 5 (SSHWS/NWS)
Bão Katrina lúc mạnh nhất vào ngày 28 tháng 8 năm 2005
Hình thành23 tháng 8
Tan31 tháng 8
(Xoáy thuận ngoại nhiệt đới sau ngày 30 tháng 8)
Sức gió mạnh nhấtDuy trì liên tục trong 1 phút:
175 mph (280 km/h)
Áp suất thấp nhất902 mbar (hPa); 26.64 inHg
Số người chết1.392 được xác nhận tại Mỹ (báo cáo NHC năm 2023)
Thiệt hại97,4-145,5 tỷ USD (2005)
(Lớn nhất trong lịch sử)
Vùng ảnh hưởngBahamas, Nam Florida, Cuba, Louisiana (đặc biệt là Vùng đô thị New Orleans), Mississippi, Alabama, Florida, phần lớn Đông Bắc Mỹ

Bão Katrina phát triển từ áp thấp nhiệt đới 12L trên vùng Đông Nam Bahamas vào ngày 23 tháng 8 năm 2005, kết quả từ sự tương tác giữa một sóng đông và những tàn dư của áp thấp nhiệt đới Ten. Hệ thống dần mạnh lên thành bão nhiệt đới Katrina vào sáng sớm ngày 24 tháng 8. Cơn bão di chuyển hướng đến Florida, và đạt cấp độ bão cuồng phong chỉ hai giờ trước khi nó đổ bộ vào địa điểm giữa Hallandale BeachAventura trong sáng sớm ngày 25 tháng 8. Katrina suy yếu trên đất liền, nhưng đã mạnh trở lại thành bão cuồng phong chỉ một giờ sau khi đi vào vịnh Mexico, và nó tiếp tục mạnh thêm trên vùng nước ngoài khơi. Vào ngày 27 tháng 8, Katrina đạt cấp độ 3 trong thang bão Saffir-Simpson, trở thành cơn bão lớn thứ ba của mùa bão. Sau đó, một chu trình thay thế thành mắt bão làm gián đoạn quá trình tăng cường độ, nhưng đã giúp cơn bão tăng kích thước lên gần gấp đôi.[54] Trên vịnh Mexico, Katrina tăng cường mạnh mẽ, từ bão cấp 3 lên thành bão cấp 5 chỉ trong vòng 9 tiếng. Nguyên nhân giúp Katrina mạnh lên rất nhanh là nhờ nhiệt độ nước biển trên bề mặt của dòng lặp trong vịnh ấm bất thường.[113]

Đường đi bão Katrina phiên bản màu cũ

Trong sáng sớm ngày 28 tháng 8 Katrina mạnh lên thành bão cấp 5 và đạt đỉnh vào thời điểm 18.00 UTC cùng ngày, với vận tốc gió duy trì liên tục trong một phút tối đa 150 kt (280 km/h) và áp suất trung tâm tối thiểu 902 mbar (26,6 inHg). Trị số áp suất đo được này giúp Katrina trở thành cơn bão Đại Tây Dương mạnh thứ tư từng được ghi nhận trong lịch sử vào thời điểm đó; đồng thời là cơn bão mạnh nhất từng ghi nhận được trên vịnh Mexico. Tuy nhiên, vị trí thứ 4 đã bị đẩy lùi xuống thứ 6 bởi bão Ritabão Wilma sau này trong mùa bão; và kỷ lục bão mạnh nhất trên vịnh Mexico cũng bị phá vỡ bởi Rita.[54] Tiếp theo Katrina suy yếu và tâm bão đi qua bờ biển gần Buras-Triumph, Louisiana vào thời điểm 1110 UTC ngày 29 tháng 8 với cường độ bão cấp 3, vận tốc gió lúc đó là 110 kt (205 km/h). Tại thời điểm đổ bộ, trường gió bão cuồng phong (≥ 64 kt) trải rộng 105 hải lí (195 km) từ tâm bão ra phía ngoài, áp suất tối thiểu khi đó là 920 mbar (27 inHg). Sau khi di chuyển qua vùng Đông Nam Louisiana và eo Breton, cơn bão đổ bộ lần thứ ba gần biên giới Louisiana–Mississippi với vận tốc gió 105 kt (195 km/h), vẫn ở cường độ bão cấp 3. Katrina đã duy trì cường độ ổn định khi tiến vào Mississippi, cuối cùng suy yếu thành bão nhiệt đới trên khu vực gần Meridian, Mississippi khi đã đi sâu được 130 hải lí (240 km) vào trong đất liền. Katrina tiếp tục giảm cấp xuống còn áp thấp nhiệt đới trên khu vực gần Clarksville, Tennessee, nhưng những tàn dư của nó có thể nhận ra lần cuối cùng trên vùng Đông Ngũ Đại Hồ trong ngày 31 tháng 8, thời điểm mà nó bị hấp thụ bởi một front lạnh. Kết quả tạo ra một cơn bão ngoại nhiệt đới di chuyển nhanh chóng theo hướng Đông Bắc và tác động đến vùng miền Đông Canada.[54]

Chuẩn bị và ảnh hưởng

Lũ lụt tại New Orleans
Số người chết theo tiểu bang
Khu vựcSố người chết
Bang Louisiana986-1577
Bang Mississippi238
Bang Florida14
Khu vực khác7
Tổng hợp thương vong do bão
Tổng số người chết1245-1836

(NHC: 1392)

Mất tích135

Vào ngày 28 tháng 8, NWS New Orleans (NWS: Cơ quan Thời tiết Quốc gia) đã ban hành một bản tin thời tiết khẩn cấp miêu tả những tác động thảm khốc có thể xảy ra, so sánh Katrina với Bão Camille năm 1969. Cùng ngày hôm đó, thị trưởng New Orleans Ray Nagin đã ban hành lệnh sơ tán bắt buộc đầu tiên của thành phố. Khoảng 80% thành phố và 83% Giáo xứ Jefferson lân cận đã sơ tán trước cơn bão.[114]  Cơn bão đã để lại thiệt hại thảm khốc trên khắp miền nam Louisiana, với hơn 300.000 ngôi nhà bị hư hại hoặc phá hủy; hầu hết trong số này đều ở Giáo xứ Orleans.[115]  Tại New Orleans, nước dâng do bão đã làm vỡ đê dọc theo Đường thủy Nội địa Vùng vịnh và các kênh đào trên Phố 17 và Đại lộ London (không phải là thủ đô London của Anh), làm ngập lụt khoảng 80% diện tích thành phố. Một phần của thành phố vẫn ở dưới nước trong 43 ngày.[54]  Đường bờ biển Mississippi và Alabama cũng bị thiệt hại nghiêm trọng do nước dâng do bão cao 30 ft (9,1 m) của cơn bão, với rất ít công trình kiến ​​trúc trước đó còn sót lại trên bờ biển.[54]  Trên toàn khu vực, cơn bão gây ngập lụt và làm hư hỏng khoảng 350.000 phương tiện. Khoảng 2,4 triệu người mất khả năng tiếp cận với nước uống sạch.[116]  Katrina cũng gây ra một đợt bùng phát gồm 62 cơn lốc xoáy trên khắp 8 bang ở miền đông Hoa Kỳ.[54] Bão Katrina gây ra thiệt hại vô cùng nghiêm trọng trên nhiều khu vực ở LouisianaMississippi, với tổng thiệt hại ước tính khoảng 173 tỷ USD; khiến Katrina trở thành thảm họa thiên nhiên gây thiệt hại vật chất lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Trên khắp nước Mỹ, Katrina làm chết 1.392 người (số liệu đã được giảm xuống từ 1.833 người) theo báo cáo mới nhất của Trung tâm Bão Quốc gia (NHC), khiến nó trở thành một trong những cơn bão nguy hiểm nhất ở Hoa Kỳ,[54][117][118]  và là cơn bão nguy hiểm nhất ở Mỹ kể từ năm 1928.[114] Hàng chục nghìn người mất việc làm sau cơn bão.[114] Cư dân trên khắp khu vực New Orleans bị ảnh hưởng về sức khỏe, bao gồm triệu chứng phát ban và các vấn đề về hô hấp, do nước và không khí bị ô nhiễm sau cơn bão.[119] Katrina buộc khoảng 800.000 người phải di dời tạm thời, đây là số lượng người phải di dời lớn nhất trong cả nước kể từ sự kiện Dust Bowl (Thập niên 30 Dơ bẩn).[120]

Thống kê thiệt hại

Các thống kê về số người chết và thiệt hại vật chất do bão Katrina rất khác nhau, với các báo cáo khác nhau lên tới hàng trăm người, các nguồn tin rất hỗn loạn. Dựa trên báo cáo cũ của Trung tâm Bão Quốc gia và một số báo cáo khác thì 1.836 trường hợp tử vong có thể là do cơn bão: 1 ở Kentucky , 2 ở Alabama, Georgia và Ohio, 14 ở Florida, 238 ở Mississippi và 1.577 ở Louisiana, ngoài ra 135 người vẫn được phân loại là mất tích ở Louisiana, và nhiều trường hợp tử vong là gián tiếp, nhưng hầu như không thể xác định nguyên nhân chính xác của một số trường hợp tử vong và thiệt hại vật chất khoảng 125 tỷ USD.[121][122][123][124] Tuy nhiên, bản báo cáo cập nhật ngày 4 tháng 1 năm 2023 của NHC đã hạ số người chết xuống chỉ còn 1.392, trong khi thiệt hại vật chật chất được cập nhật cho rằng 90% khả năng nằm trong khoảng từ 97,4-145,5 tỷ USD (2005).[54] Một báo cáo năm 2008 của tạp chí Phòng chống Thảm họa và Y tế Công cộng chỉ ra rằng 966 trường hợp tử vong có thể là do trực tiếp do cơn bão ở Louisiana, bao gồm cả những người sơ tán ngoài tiểu bang và 20 trường hợp khác gián tiếp (như tử vong liên quan đến súng và ngộ độc khí gas). Do nguyên nhân tử vong không chắc chắn với 454 người sơ tán, giới hạn tối đa về số người chết là 1.440 đã được ghi nhận trong báo cáo.[123] Một nghiên cứu tiếp theo của Bộ Y tế và Bệnh viện Louisiana đã xác định rằng cơn bão là nguyên nhân trực tiếp gây ra 1.170 trường hợp tử vong ở Louisiana.[125]

Sau cơn bão

Thiệt hại lớn nhất về nhân mạng trong bão Katrina là do lũ lụt do sai sót kỹ thuật trong hệ thống phòng chống lũ lụt, đặc biệt là hệ thống đê ven biển xung quanh New Orleans,[126] khiến hơn 80% thành phố bị ngập lụt,[127][128] hàng chục nghìn người không sơ tán khỏi thành phố không thể tiếp cận nước, thực phẩm và các nhu cầu cơ bản khác, và làm nhiều người chết do nước dâng. Sau cơn bão, nhiều cuộc điều tra đã kết luận rằng Công binh Lục quân Hoa Kỳ, cơ quan đã thiết kế và xây dựng các con đê trong khu vực từ nhiều thập kỷ trước, là nguyên nhân gây ra sự cố của hệ thống kiểm soát lũ lụt.[129] Tuy nhiên, các tòa án liên bang sau đó đã ra phán quyết rằng Quân đoàn không thể chịu trách nhiệm về tài chính do quyền miễn tố trong Đạo luật Kiểm soát Lũ lụt năm 1928.[130]

Cơ quan Quản lý Tình huống Khẩn cấp Liên bang (FEMA) phải đối mặt với những lời chỉ trích về thời gian ứng phó , thiếu sự phối hợp với các cơ quan nhà nước, thiếu nguồn cung và không đủ nhà ở cho nhân viên liên bang.[131] Nhiều quan chức chính phủ khác phải đối mặt với những lời chỉ trích vì phản ứng của họ, đặc biệt là Thị trưởng New Orleans Ray Nagin, Thống đốc Louisiana Kathleen Blanco và Tổng thống George W. Bush . Tuy nhiên, một số cơ quan, chẳng hạn như Tuần duyên Hoa Kỳ (USCG), Trung tâm Bão Quốc gia (NHC) và Cơ quan Thời tiết Quốc gia (NWS), đã được khen ngợi vì hành động của họ, trong đó NHC được đặc biệt khen ngợi vì dự báo chính xác trước đó.[132]

Bão Rita

Bão Rita
Bão lớn cấp 5 (SSHWS/NWS)
Hình thành18 tháng 9
Tan26 tháng 9
Sức gió mạnh nhấtDuy trì liên tục trong 1 phút:
285 km/h (180 mph)
Áp suất thấp nhất895 hPa (mbar)
Số người chết120
Thiệt hại$18.5 tỷ (USD )
Vùng ảnh hưởngHispaniola, Turks and Caicos Islands, Bahamas, Cuba, Florida, Georgia, Mississippi, Louisiana, Texas, Oklahoma, Arkansas, Missouri, Tennessee, Kentucky, Illinois, vùng Ngũ Đại Hồ

Lịch sử khí tượng

Vào giữa tháng 9, một rãnh thời thiết còn sót lại từ một front tĩnh ở phía bắc Quần đảo Leeward. Một làn sóng nhiệt đới tương tác với front này, dẫn đến sự hình thành áp thấp nhiệt đới gần Quần đảo Turks và Caicos vào ngày 18 tháng 9. Trong điều kiện nhìn chung thuận lợi cho sự phát triển, áp thấp nhanh chóng mạnh lên và đạt cường độ bão nhiệt đới vào lúc 18:00 UTC ngày hôm đó dựa trên dữ liệu từ chuyến bay của máy bay trinh sát, các tàu lân cận và phao quan trắc thời tiết. Kết quả là cơn bão nhiệt đới được đặt tên là Rita. Tuy nhiên, gió đứt theo phương thẳng đứng vừa phải ở phía nam do xoáy lạnh ở tầng trên gần đó đã tiếp tục tăng cường và làm lệch đám mây đối lưu ở phía Bắc so với tâm hoàn lưu (có thể hiểu là tâm bão). Khi xoáy lạnh ở tầng trên suy yếu, trung tâm hoàn lưu của Rita được cải thiện, bù đắp cho sự vô tổ chức của đám mây do gió đứt. Do đó, cơn bão nhiệt đới tiếp tục xu hướng mạnh lên trước đó khi nó di chuyển về phía tây qua Bahamas dọc theo vùng ngoại vi phía nam của một rìa áp cao.[66][133] Khi tiến vào eo biển Florida vào ngày 20 tháng 9, Rita đã mạnh lên thành bão cấp 1 lúc 12:00 UTC.[134] Sáu giờ sau, Rita mạnh lên thành bão cấp 2 khi bão ở phía nam Key West (thuộc Florida), điều kiện môi trường thuận lợi do dòng phân kì thuận lợi và nhiệt độ bề mặt nước biển ấm bất thường, xu hướng mạnh lên tiếp tục diễn ra,[135] và Rita đã mạnh lên thành bão cấp 3 khi đi vào Vịnh Mexico lúc 06:00 UTC vào ngày 21 tháng 9.[66][133]

Đường đi bão Rita

Khi đến vịnh Mexico, Rita đã đi qua dòng biển cực kỳ ấm áp vào giữa trưa ngày 21 tháng 9, khiến nó tiếp tục mạnh lên. Kết quả là trường gió của bão mở rộng đáng kể và áp suất khí quyển trung tâm nhanh chóng giảm xuống.[66] Đến 1800 UTC ngày hôm đó, Rita đạt sức gió tương đương bão cấp 5.[136] Các điều kiện thuận lợi cho phép bão mạnh thêm và vào lúc 03:00 UTC ngày 22 tháng 9, Rita đạt cường độ cực đại với sức gió duy trì tối đa 155 kt (285 km/giờ) và áp suất khí quyển tối thiểu là 895 mbar (hPa; 26,43 inHg), khiến nó trở thành cơn bão nhiệt đới mạnh nhất từng được ghi nhận ở Vịnh Mexico. Vào thời điểm đó, nó nằm cách đồng bằng sông Mississippi 310 mi (500 km) về phía nam. Rita duy trì cường độ bão cấp 5 trong 18 giờ trước khi chu kỳ thay thế mắt bão diễn ra, khiến bão suy yếu xuống thành bão cấp 4 vào lúc 18:00 UTC vào ngày 22 tháng 9. Cùng lúc đó, xoáy thuận nhiệt đới bắt đầu di chuyển theo hướng tây bắc xung quanh vùng ngoại vi phía tây nam của vùng áp cao ở Đông Nam Hoa Kỳ. Kết quả của chu kỳ này là một thành mắt mới lớn hơn được củng cố, và trường gió của Rita mở rộng. Do gió đứt và vùng nước thềm lục địa thấp hơn nên cơn bão tiếp tục suy yếu. Rita suy yếu xuống thành bão cấp 3 trước khi đổ bộ vào lúc 07:40 UTC ngày 24 tháng 9 ở vùng cực tây nam Louisiana giữa Johnson Bayou và Đèo Sabine . Vào thời điểm đổ bộ, Rita là cơn bão cấp 3 với sức gió 100 kt (185 km/h) và áp suất khí quyển là 937 mbar (hPa; 27,67 inHg).[66]

Khi vào đất liền vào ngày 24 tháng 9, Rita bắt đầu suy yếu nhanh chóng.[137] Bão đã suy yếu thành cường độ bão nhiệt đới (cơn bão dưới cấp 1) gần 12 giờ sau khi đổ bộ vào đất liền. Tiến về phía bắc gần như song song với biên giới tiểu bang giữa Louisiana và Texas, bão suy yếu thành áp thấp nhiệt đới khi nó đi qua Arkansas vào lúc 06:00 UTC vào ngày 25 tháng 9,[138] ngay trước khi nó chuyển hướng theo hướng đông bắc trước một ranh giới trực diện đang đến gần. Đầu ngày hôm sau, áp thấp mất phần lớn đối lưu trên vùng đông nam Illinois và suy yếu thành vùng thấp có hoàn lưu còn sót lại vào lúc 06:00 UTC ngày hôm đó. Front phía trước sau đó đã hấp thụ hình thế còn lại sáu giờ sau trên vùng Great Lakes phía nam.[66]

Ảnh hưởng

Trên khắp nước Mỹ, Rita đã gây thiệt hại 18,5 tỷ USD và khiến 120 người thiệt mạng, mặc dù chỉ có 7 trường hợp tử vong liên quan trực tiếp đến cơn bão.[66][139][140] Trong thời gian đầu Rita phát triển, Rita đã gây ngập lụt cho các ngôi nhà ở phía bắc Cuba và Florida Keys.[66][141]  Việc Rita ảnh hưởng đến bờ biển Hoa Kỳ đã gây ra một trong những cuộc di tản hàng loạt lớn nhất trong lịch sử đất nước, với ước tính khoảng 3,7 triệu người chạy trốn khỏi bờ biển Texas giữa Corpus Christi và Beaumont.[142] Một phần do nhiệt độ cao trước khi Rita đổ bộ và người già dễ bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ quá cao, ít nhất 80 người đã chết trong cuộc di tản hàng loạt;[143]  một vụ cháy xe trên đường đến Dallas đã cướp đi sinh mạng của 23 người.[144] Rita đã khiến nước dâng cao 15 foot (4,6 m) tàn phá các khu vực của Giáo xứ Cameron ở Louisiana,[145] phá hủy hầu hết các công trình kiến ​​​​trúc ở các thị trấn như Cameronbãi biển Holly. Nước dâng do bão cũng làm hư hại nhiều ngôi nhà ở Quận Jefferson liền kề ở Texas.Tại New Orleans, Rita gây thêm lũ lụt và tràn đê đã được sửa chữa sau cơn bão Katrina một tháng trước đó. Tác động từ lượng mưa lớn, gió giật và lốc xoáy liên quan đến Rita đã ảnh hưởng đến phần lớn vùng hạ lưu Thung lũng sông Mississippi và hơn một triệu khách hàng sử dụng điện bị mất điện.[66]

Một phần ba dân số của Giáo xứ Cameron đã rời khỏi giáo xứ sau sự tàn phá do Rita gây ra.[146] Cơ quan Quản lý Tình huống Khẩn cấp Liên bang (FEMA) đã cấp hơn 1,3 tỷ USD cho Louisiana để hỗ trợ các nỗ lực phục hồi; 668,8 triệu USD đã được phân bổ dưới hình thức trợ cấp hỗ trợ công cho các biện pháp phục hồi ban đầu và 523,5 triệu USD đã được gửi đến các cá nhân như một phần của Chương trình Cá nhân và Hộ gia đình của FEMA.[147] Hơn 1 tỷ USD tiền hỗ trợ liên bang cũng đã được giải ngân cho Texas.[148] Chương trình Khắc phục Thảm họa của Khối Phát triển Cộng đồng Texas đã hỗ trợ 1,85 triệu người bên cạnh việc hỗ trợ sửa chữa cơ sở hạ tầng trong dài hạn.[149]

Bão Stan

Bão Stan
Bão cấp 1 (SSHWS/NWS)
Bão Stan vào ngày 4 tháng 10 năm 2005
Hình thành1 tháng 10
Tan5 tháng 10
Sức gió mạnh nhấtDuy trì liên tục trong 1 phút:
130 km/h (80 mph)
Áp suất thấp nhất977 hPa (mbar)
Số người chết1669
Thiệt hại$2.71 tỷ (USD )
Vùng ảnh hưởngCosta Rica, Nicaragua, Honduras, El Salvador, Belize, Guatemala, Mexico.

Lịch sử khí tượng

Đường đi bão Stan năm 2005

Bão Stan hình thành từ một sóng nhiệt đới được Trung tâm Bão Quốc gia (NHC) xác định lần đầu tiên ngoài khơi bờ biển phía tây châu Phi vào ngày 17 tháng 9 năm 2005. Sóng này tiến vào vùng biển Caribe vài ngày sau đó, một khu vực có điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển xoáy thuận. Đối lưu không liên tục hình thành xung quanh sóng khi nó di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc.[69] Vào ngày 1 tháng 10, hình thế trên đã được tổ chức đầy đủ và NHC nâng cấp nó thành áp thấp nhiệt đới, với tâm hoàn lưu nằm cách Cozumel, Mexico khoảng 135 mi (215 km) về phía đông nam.[69][150] Khoảng gần 1 ngày sau, áp thấp tiếp tục mạnh lên thành bão nhiệt đới, với tên quốc tế là Stan, NHC thực hiện nâng cấp dựa trên sự phát triển của một dải đối lưu mạnh ở phía Đông Nam tâm bão.[69][149] Khoảng 10:00 UTC (5 giờ sáng CDT ) vào ngày 2 tháng 10, Stan đổ bộ lần đầu tiên gần Punta Hualaxtoc, Mexico, cách Tulum khoảng 35 dặm (55 km) về phía nam, với sức gió 35 kt (65 km/h).  Trong 8 giờ tiếp theo, cơn bão suy yếu thành áp thấp nhiệt đới khi di chuyển trên bán đảo Yucatán. Khi tiến vào Vịnh Mexico vào ngày 3 tháng 10 theo giờ quốc tế, Stan đã mạnh trở lại thành bão nhiệt đới; đối lưu bắt đầu tái phát triển ở tâm bão.[69]

Một khu vực áp suất cao khá mạnh ở phía tây vịnh Mexico đã khiến cơn bão đổi hướng về phía Tây Nam, đi vào vịnh Campeche, hướng đến bờ biển Mexico khác.[69] Lớp mây che phủ ngày càng dày đặc hình thành trên cơn bão do điều kiện môi trường thuận lợi trên vịnh Campeche. Cuối ngày 3 tháng 10, các nhà dự báo tại Trung tâm Bão Quốc gia đã ghi nhận 49% khả năng Stan sẽ mạnh lên nhanh chóng trước khi đổ bộ lần cuối. Sự tăng cường này đã diễn ra trong vòng 12 giờ trước khi cơn bão di chuyển vào đất liền.[151] Qua một đêm, cấu trúc của Stan được cải thiện nhanh chóng, với đặc điểm thành mắt phát triển bên trong vùng đối lưu sâu bất thường với nhiệt độ trên đỉnh đám mây là −90 °C (−130 °F) qua ảnh vệ tinh hồng ngoại.[152]  Sau diễn biến này, Trung tâm Bão Quốc gia đã nâng cấp cơn bão lên bão cấp 1 trên thang bão Saffir–Simpson . Vào khoảng 12:00 UTC ngày 4 tháng 10, Stan đổ bộ gần Punta Roca Partida với sức gió 70 kt (130 km/h). Cơn bão cũng đạt áp suất khí quyển trung tâm thấp nhất là 977 mb (hPa; 28,85 inHg) vào thời điểm này. Không lâu sau khi di chuyển qua địa hình đồi núi ở miền trung Mexico, Stan nhanh chóng suy yếu thành áp thấp nhiệt đới và tan hoàn toàn vào sáng sớm ngày 5 tháng 10 trên bang Oaxaca.[69]

Ảnh hưởng

Bản đồ mưa do bão Stan gây ra

Stan đã khiến chết 80 người ở Mexico và thiệt hại vật chất ước tính lên tới 1,2 tỷ USD (13,2 tỷ MXN).[69][51]  Stan là một phần và gắn liền với một hệ thống thời tiết lớn gây ra mưa lớn trên khắp miền đông Mexico và Trung Mỹ.[69] Lượng mưa xối xả khắp khu vực này đã khiến 1.513 người chết ở Guatemala,[68] khiến đây trở thành thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất trong lịch sử đất nước.[153] Thiệt hại ở Guatemala ước tính khoảng 996 triệu USD.[154] Núi lửa Santa Ana ở El Salvador phun trào vào ngày 1 tháng 10, xảy ra đồng thời với lũ lụt.  Lũ lụt đã giết chết 69 người trong nước và thiệt hại từ hai thảm họa ước tính lên tới 355,6 triệu USD.[155] Tại Honduras, hệ thống thời tiết đã giết chết 7 người và gây thiệt hại 100 triệu USD. Ngoài ra còn có ba người chết ở Nicaragua và một người ở Costa Rica.[156]  Thiệt hại về đường sá ở Costa Rica do bão Stan và cơn bão Rita trước đó gây ra ước tính khoảng 57 triệu USD (₡28 tỷ (CRC).[157]

Greenpeace (Tổ chức Hoà bình xanh) đổ lỗi cho nạn phá rừng tràn lan đã làm trầm trọng thêm thảm họa và kêu gọi các chính phủ hành động nhiều hơn để bảo vệ rừng và rừng ngập mặn địa phương.[158]

Bão Wilma

Lịch sử khí tượng[159]

Bão Wilma
Bão lớn cấp 5 (SSHWS/NWS)
Bão Wilma với cường độ cao nhất kỷ lục về phía đông bắc của Honduras vào ngày 19 tháng 10
Hình thành15 tháng 10
Tan27 tháng 10 năm 2005
(Xoáy thuận ngoại nhiệt đới sau ngày 26 tháng 10)
Sức gió mạnh nhấtDuy trì liên tục trong 1 phút:
185 mph (295 km/h)
Áp suất thấp nhất882 mbar (hPa); 26.05 inHg
Số người chết52
Thiệt hại$27,4 tỷ (2005 USD)
Vùng ảnh hưởngJamaica, Puerto Rico, Cuba, Quần đảo Cayman, Trung Mỹ, Mexico (chủ yếu ở Quintana Roo), Hoa Kỳ (chủ yếu ở Florida), Bahamas, Bermuda, Canada (chủ yếu ở Nova Scotia) và Pháp (chủ yếu ở Saint PierreMiquelon)

Vào giữa tháng 10 năm 2005, một hình thế giống rãnh gió mùa lớn (là 1 phần của dải hội tụ nhiệt đới) đã phát triển ở vùng biển Caribe. Một vùng áp thấp hoàn lưu rộng được hình thành vào ngày 13 tháng 10 ở phía đông nam Jamaica, dần dần trở nên rõ ràng hơn. Vào ngày 15 tháng 10, NHC cho biết hình thế này đã trở thành áp thấp nhiệt đới khi nằm cách Grand Cayman khoảng 220 dặm (350 km) về phía Đông Đông Nam. Áp thấp nhiệt đới di chuyển theo hướng Tây Tây Nam vào nơi có môi trường thuận lợi, ví dụ như nhiệt độ bề mặt nước biển cao. Áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão nhiệt đới vào ngày 17 tháng 10, và có tên quốc tế là Wilma. Sự tăng cường ban đầu diễn ra chậm, do kích thước lớn của Wilma và độ lớn gradient áp suất (có thể hiểu là thứ đặc trưng cho tốc độ thay đổi áp suất theo hướng, gradient là khái niệm của Giải tích) khá thấp, mặc dù đối lưu liên quan dần dần được tổ chức.

Vào ngày 18 tháng 10, Wilma mạnh lên thành một cơn bão cuồng phong và sau đó bắt đầu mạnh lên nhanh chóng trên vùng biển rộng lớn của biển Caribe. Trong khoảng thời gian 30 giờ cho đến ngày 19 tháng 10, áp suất khí quyển của Wilma giảm từ 982 xuống 882 hPa (29,0 xuống 26,0 inHg); điều này khiến Wilma trở thành cơn bão mạnh nhất trên Đại Tây Dương được ghi nhận theo tiêu chí áp suất trung tâm tối thiểu. Trong khoảng thời gian mạnh lên, gió tăng lên đến cường độ cực đại là 160 kt (295 km/h), khiến Wilma trở thành bão cấp 5 trên thang bão Saffir–Simpson. Một chu trình thay thế thành mắt đã khiến Wilma suy yếu xuống bão cấp 4 vào ngày 20 tháng 10, khi bão di chuyển về phía Tây Bắc về phía bán đảo Yucatán của Mexico. Cuối ngày 21 tháng 10, Wilma đi qua đảo Cozumel, Quintana Roo với sức gió duy trì 130 kt (240 km/h), tại Cozumel ghi nhận áp suất 928,0 hPa. Khoảng sáu giờ sau, Wilma đổ bộ lần thứ hai vào đất liền Mexico gần Puerto Morelos.

Đường đi phiên bản màu cũ của bão Wilma năm 2005

Bão suy yếu khi di chuyển trên đất liền nhưng mạnh lên trở lại khi đi vào vịnh Mexico. Wilma tăng tốc độ và đổi hướng di chuyển, bão bắt đầu đi theo hướng Đông Bắc do bão được dẫn đường một rãnh thời tiết mạnh. Sau khi đi qua phía tây bắc Florida Keys, cơn bão đổ bộ vào vùng Tây Nam Florida gần Cape Romano vào ngày 24 tháng 10 với sức gió 105 kt (195 km/h). Wilma nhanh chóng đi qua bang và suy yếu, tiến vào vùng biển rộng lớn của Đại Tây Dương gần Jupiter, Florida. Cơn bão mạnh trở lại trong thời gian ngắn khi đi qua phía Bắc Bahamas, hấp thụ cơn bão nhiệt đới Alpha yếu xìu ở phía Đông. Bão đi qua phía tây Bermuda vào ngày 25 tháng 10. Sau khi bão không khí lạnh xâm nhập và gió cắt xuyên qua trung tâm đối lưu, Wilma chuyển thành một xoáy thuận ngoài nhiệt đới vào ngày 26 tháng 10 ở phía nam Nova Scotia trước khi nó bị sáp nhập bởi một xoáy thuận ngoại nhiệt đới khác một ngày sau đó trên vùng Atlantic Canada.

Bão Wilma khi là bão cấp 3, trước khi đổ bộ vào Florida. Bão đã gây gió mạnh, có nơi ghi nhận gió giật mạnh tới 217 km/h tại Florida trong toàn bộ quá trình ảnh hưởng.

Ảnh hưởng

Trong giai đoạn bão hình thành, do hoàn lưu rộng lớn của Wilma gây mưa lớn khắp phía tây biển Caribe, đã có 12 người ở Haiti và một người ở Jamaica tử vong.[159] Tại Mexico, Wilma đã gây ra lượng mưa rất lớn ở Mexico, tổng lượng mưa trong 24 giờ cao nhất là 64,330 in (1.633,98 mm) được ghi nhận tại Isla Soones, là kỉ lục quốc gia.[160][161] Gió duy trì trong 2 phút cao nhất là 161 km/h, gió giật cao nhất là 209 km/h (gió cấp 14 giật cấp 17 thang BF) đã được ghi nhận tại Cancun.[159] Có 8 người chết ở Mexico và thiệt hại kinh tế trên toàn quốc ước tính khoảng 454 triệu USD (4,8 tỷ MXN).[159][162][163] Nạn cướp bóc và bạo loạn xuất hiện ở Cancún, sau đó quân đội liên bang và địa phương đã dẹp loạn.[164][165] Sân bay Cancún dừng khai thác chuyến bay trong những ngày sau cơn bão.[166] Vào ngày 28 tháng 11, Mexico tuyên bố "khu vực thảm họa" đối với 9 trong số 11 đô thị của Quintana Roo.[162] Nacional Financiera - một tổ chức tài chính phát triển Mexico đã cung cấp hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi Wilma và Stan thông qua quỹ có giá trị 38 triệu USD.[167]

Gió mạnh phổ biến từ cấp 8 đến cấp 10, có nơi ghi nhận gió mạnh cấp 11 giật cấp 12-13 theo thang gió BF đã được ghi nhận tại Cuba dù bão không đổ bộ.[159] Mưa và nước dâng do bão đã làm ngập lụt các khu vực phía tây Cuba, gây thiệt hại kinh tế 704 triệu USD.[168] Bão đổ bộ vào Florida cũng gây mưa lớn và gió mạnh, gió duy trì trong 2 phút mạnh nhất 148 km/h - cấp 13 thang BF (tại hồ Okeechobee), gió giật mạnh cao nhất 217 km/h (cấp 17 thang BF) và tổng lượng mưa cao nhất 274 mm đã được ghi nhận trên đất liền.[159] Còn ở vùng biển quanh bang này, ghi nhận gió trung bình 2 phút là 163 km/h, giật tới 198 km/h (gió cấp 14 giật cấp 16 thang BF) tại ngọn hải đăng Fowey Rocks, phía Đông Florida.[159] Wilma gây thiệt hại 19 tỷ USD và làm 30 người thiệt mạng; 5 trong số những người thiệt mạng là do cơn bão trực tiếp gây ra.[159][169][170] Triều cường do bão Wilma gây ra đã gây ra trận lũ lụt nghiêm trọng nhất ở Florida Keys kể từ bão Betsy năm 1965.[171] Wilma đã gây ra thiệt hại hàng tỷ đô la ở khu vực đô thị Miami, trong đó có thiệt hại 2,9 tỷ đô la ở quận Palm Beach,[172]  2 tỷ USD ở quận Miami-Dade, và 1,2 tỷ USD ở quận Broward.[173] Nhiều ngôi nhà và cơ sở kinh doanh bị ảnh hưởng ở một mức độ nào đó, với hơn 55.000 ngôi nhà và 3.600 nơi làm việc bị hư hại chỉ riêng ở quận Palm Beach.[172] Vào ngày 24 tháng 10 năm 2005, cùng ngày Wilma đổ bộ vào Florida, Tổng thống George W. Bush đã phê chuẩn tuyên bố thảm họa cho 13 quận của Florida. FEMA đã chi 342,5 triệu USD cho 227.321 người nộp đơn được phê duyệt. Ngoài ra, hỗ trợ công cộng từ FEMA đạt tổng cộng hơn 1,4 tỷ USD và các khoản tài trợ cho các dự án giảm thiểu nguy cơ vượt quá 141,5 triệu USD.[174]  

Sau khi rời Florida, Wilma đã khiến thêm một người thiệt mạng và gây ra thiệt hại 6,4 triệu USD cho Bahamas khi nó đi qua phía Tây Bắc của quốc gia này.[159][160] Tại Bermuda, bão Wilma tạo ra gió giật mạnh 82 km/h.[160]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mùa bão Đại Tây Dương 2005 https://www.cpc.ncep.noaa.gov/products/outlooks/hu... https://web.archive.org/web/20170506153426/http://... https://tropical.colostate.edu/media/sites/111/201... https://web.archive.org/web/20060307053739/http://... https://www.tropicalstormrisk.com/docs/TSRATLForec... https://web.archive.org/web/20120901071312/http://... https://tropical.colostate.edu/media/sites/111/201... https://web.archive.org/web/20060210150915/http://... http://www.cpc.ncep.noaa.gov/products/outlooks/hur... https://web.archive.org/web/20150906022727/http://...